Trị vì Dương_Nhật_Lễ

Dẹp đảo chính lần đầu

Ngày 25 tháng 5 năm Kỷ Dậu (tức 29 tháng 6 năm 1369), vua Trần Dụ Tông qua đời. Trước khi mất, Dụ Tông đã ban chiếu truyền ngôi cho Dương Nhật Lễ[1]. Hiến Từ Thái hậu đồng ý di chiếu cho đón ông lên ngôi, đặt niên hiệu Đại Định (大定). Đại Việt sử ký toàn thư kể ông truy tặng Cung Túc vương là Hoàng thái bá (皇太伯). Nam Ông mộng lục cho biết thêm việc ông bổ dụng các anh khác mẹ của Dụ Tông là Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác làm Thái tể, Cung Định vương Trần Phủ làm Thái sư, Cung Tuyên vương Trần Kính làm Hữu Tướng quốc.

Cùng lúc này, sứ đoàn nhà Minh sang sắc phong cho Dụ Tông tới Đại Việt. Nhật Lễ (tên ngoại giao với nhà Minh là Trần Nhật Kiên) xin được thụ phong nhưng sứ nhà Minh là Trương Dĩ Ninh (張以寧) không đồng ý. Nhật Lễ phải cử sứ là Đỗ Thuấn Khâm (杜舜欽) sang nhà Minh báo tang và cầu phong[2].

Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận, Đại Định Đế lên ngôi nhưng bỏ bê công việc, ham chơi, rượu chè, cho đón cha ruột Dương Khương vào triều giữ chức Lệnh thư gia, có ý đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình. Hiến Từ Thái hậu, mẹ Dụ Tông tỏ ý hối hận việc lập Nhật Lễ. Nhật Lễ bèn ngầm đánh thuốc độc giết chết vào ngày 14 tháng 12 năm Kỷ Dậu (tức 12 tháng 1 năm 1370)[1].

Đêm ngày 20 tháng 9 năm Canh Tuất (tức 9 tháng 10 năm 1370), cha con quan Thái tể Trần Nguyên Trác, Trần Nguyên Tiết và hai người con của Thiên Ninh công chúa (chị gái cùng mẹ của Dụ Tông) đem người tôn thất vào thành định giết Đại Định.

Đại Định Đế trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Đại Định Đế vào cung, chia người đi bắt Nguyên Trác cùng 17 người chủ mưu và giết hết[1].

Bị phế truất

Sau khi vua Đại Định xử tử Trần Nguyên Trác, Thái sư Cung Định vương Trần Phủ, vì có con gái làm Hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Hữu Tướng quốc Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc thượng hầu Trần Nguyên Đán, Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại[3], phủ Thanh Hóa để dấy quân. Trần Kính giúp anh đảm nhận việc sắm sửa mọi vũ khí, trang bị quân đội.

Khi ấy, Đại Định Đế Dương Nhật Lễ chuyên dùng Thiếu úy Trần Ngô Lang (陳吾郎) mà không biết Ngô Lang đồng mưu với Trần Phủ. Mỗi khi sai quân tướng đi đánh bắt, Trần Ngô Lang đều bí mật bảo họ theo Trần Phủ đừng về nữa. Rất nhiều lần sai các quân Nam, Bắc đi đánh, đều không một ai trở về. Do đó quân của Trần Phủ, Trần Kính mạnh thêm.

Ngày 13 tháng 11 năm Canh Tuất (tức 1 tháng 12 năm 1370) Cung Định vương đến phủ Kiến Hưng. Trần Ngô Lang khuyên Nhật Lễ đích thân thảo thư thoái vị và nhận tội, đem dâng cho Cung Định vương. Dương Nhật Lễ gặp Cung Định vương, quỳ xuống nhận tội, bị phế làm Hôn Đức công (昏德公). Ngày 15, Cung Định vương lên ngôi, tức Trần Nghệ Tông. Ngày 21 tháng ấy, Trần Phủ cùng Trần Kính và Thiên Ninh công chúa dẫn quân về kinh, sai giam Nhật Lễ ở phường Giang Khẩu.

Dương Nhật Lễ tới lúc đó mới biết mình bị Trần Ngô Lang phản bội. Trong khi bị giam giữ, ông lừa gọi Trần Ngô Lang đến bảo: "Ta có lọ vàng chôn ở trong cung, ngươi đi lấy về đây". Trong lúc Trần Ngô Lang quỳ xuống, Nhật Lễ bóp cổ giết chết Trần Ngô Lang. Cháu Ngô Lang là Trần Thế Đỗ tâu với Trần Nghệ Tông; nhà vua bèn lập tức hạ lệnh đánh chết Dương Nhật Lễ và con ông là Liễu, rồi sai đem chôn ở núi Đại Mông[1].

Sau khi Dương Nhật Lễ mất, mẹ ông sang Chiêm Thành cầu cứu vua Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt báo thù. Chiêm Thành đã xung đột với Đại Việt từ thời , , thường hay bị thua. Đến đời Chế Bồng Nga, vua này cùng thủ tướng là La Khải (Ko Ceng) ra sức bảo ban, huấn luyện quân sĩ nên Chiêm Thành quật khởi rất mạnh. Nghe lời mẹ Nhật Lễ, Bồng Nga đem quân đánh kinh đô Thăng Long, đốt phá cung thất, gây nhiều phiền toái cho các vua Trần từ Nghệ Tông trở về sau.